Truy tặng Triết_Mẫn_Hoàng_quý_phi

Năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 3 tháng 7 (âm lịch), Cách cách Phú Sát thị qua đời. Một tháng sau Bảo thân vương Hoằng Lịch đăng cơ, sử gọi là [Càn Long Đế].

Năm Càn Long (1736), vào tháng 10, Càn Long Đế truy phong Cách cách Phú Sát thị thụy hiệu Triết phi (哲妃). Lúc này hậu cung chưa công bố danh phận, việc lập Đích phi Phú Sát thị làm Hoàng hậu, hay phong các phi tần khác của Càn Long Đế đều diễn ra vào năm Càn Long thứ 2 (1737). Căn cứ theo Thượng dụ đương thì Triết phi Phú Sát thị được truy tặng tước hiệu còn trước cả các phi tần khác. Điều này thể hiện vị thế rất đặc biệt của Triết phi đối với Càn Long Đế.

Nội dung "Sơ thứ tế văn" (哲妃初次祭文) của Triết phi Phú Sát thị:

赞璇宫而敷化,壼范常昭。播彤管以流芬,芳徽永谢。聿深追悼,用奠几筵。维尔哲妃富察氏,秉性端凝,持躬谨慎。矢小心而匪懈,早着贤声。期景福之方长,益勤内职。乃瑶华正茂,痛零落之遽闻。遂岁序迭,更怅音容其莫睹。馨香式荐,轸恻弥殷,于戏。稽彝典以加封,丝纶特沛。念珩璜而如昔,牲醴空陈。灵克有知,尚其歆格。

.

Tán toàn cung nhi phu hóa, khổn phạm thường chiêu. Bá đồng quản dĩ lưu phân, phương huy vĩnh tạ. Duật thâm truy điệu, dụng điện kỉ diên.

Duy nhĩ Triết phi Phú Sát thị, bỉnh tính đoan ngưng, trì cung cẩn thận. Thỉ tiểu tâm nhi phỉ giải, tảo trứ hiền thanh. Kỳ cảnh phúc chi phương trường, ích cần nội chức. Nãi dao hoa chính mậu, thống linh lạc chi cự văn. Toại tuế tự điệt, canh trướng âm dung kỳ mạc đổ. Hinh hương thức tiến, chẩn trắc di ân.

Vu hí! Kê di điển dĩ gia phong, ti luân đặc phái. Niệm hành hoàng nhi như tích, sinh lễ không trần. Linh khắc hữu tri, thượng kỳ hâm cách.

— Triết phi tế văn

Năm Càn Long thứ 10 (1745), ngày 23 tháng 1 (âm lịch), Càn Long Đế ra chỉ dụ phong Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi. Sang ngày 24 tháng 1 (âm lịch), một ngày trước khi Hoàng quý phi Cao thị qua đời (tức ngày 25 tháng 1), Hoàng đế hạ chỉ truy phong Triết phi Phú Sát thị cùng vị Hoàng quý phi. Sang ngày 26 tháng 1, sau khi Hoàng quý phi Cao thị vừa mất, Càn Long Đế chính thức viết thụy hiệu cho Hoàng quý phi Phú Sát thị là Triết Mẫn Hoàng quý phi (哲憫皇貴妃), tháng 4 năm đó khiển quan làm lễ sách thụy, tế cáo Thái MiếuPhụng Tiên điện[2]. Theo Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用), thụy hiệu "Triết" có Mãn văn là 「Getuken」, ý là "can tịnh", "rõ ràng", có liên hệ với 「Ulhisu」nghĩa là "thông minh". Về sau, lại gia thêm "Mẫn", Mãn văn là 「Hairacuka」, nghĩa là "đáng tiếc".

Sách thụy văn viết rằng:

佐内治于璇宫,永怀令范。播遗徽于兰所,愈阐潜光。典备哀荣,恩均存殁。尔哲悯皇贵妃富察氏,赋质端纯,宅衷和厚。功分丝茧,怀夙夜之小心。德比珩璜,赞宫闱之雅化。溯音容于既往,垂誉问以方来。位号加崇,几筵载布,于戏。缅维爱子之忱,问年已长。眷念行身之矩,锡命弥彰。灵其有知,庶几歆格。

.

Tá nội trị vu toàn cung, vĩnh hoài lệnh phạm. Bá di huy vu lan sở, dũ xiển tiềm quang. Điển bị ai vinh, ân quân tồn một.

Nhĩ Triết Mẫn Hoàng quý phi Phú Sát thị, phú chất đoan thuần, trạch trung hòa hậu. Công phân ti kiển, hoài túc dạ chi tiểu tâm. Đức bỉ hành hoàng, tán cung vi chi nhã hóa. Tố âm dung vu kí vãng, thùy dự vấn dĩ phương lai. Vị hào gia sùng, kỉ diên tái bố.

Vu hí! Miến duy ái tử chi thầm, vấn niên dĩ trường. Quyến niệm hành thân chi củ, tích mệnh di chương. Linh kỳ hữu tri, thứ kỉ hâm cách.

— Sách viết thụy Hoàng quý phi Phú Sát thị làm Triết Mẫn Hoàng quý phi

Năm Càn Long thứ 17 (1752), ngày 27 tháng 10, Triết Mẫn Hoàng quý phi được an táng vào địa cung Dụ lăng tại Thanh Đông lăng, Bắc Kinh. Bà là một trong 5 vị hậu phi được cùng an táng ở địa cung của Dụ lăng với Càn Long Đế, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng quý phi cùng Thục Gia Hoàng quý phi. Thần vị của bà được thờ trong Long Ân điện (隆恩殿), thuộc phía Tây Noãn các, phía Đông của thần vị Tuệ Hiền Hoàng quý phi, còn phía Tây là Thục Gia Hoàng quý phi.